Sàn giao dịch phế liệu online
Mô hình kinh tế tuần hoàn

Yeumoitruong - Since 2007

bể tự hoại cải tiến BAST và BASTAF

  • Thread starter mikethananh
  • Ngày gửi
M

mikethananh

Guest
An toàn hóa chất | an toàn lao động | Sự cố tràn dầu | Bộ ứng cứu tràn đổ 25L
Thông tin về bể tự hoại cải tiến nè. Anh em xem rồi cho ý kiến nhé mình thấy nó nói hiệu suất xử lí cao gấp mấy lần công nghệ cũ...nhưng ko biết thực hư ra sao .

BỂ TỰ HOẠI CẢI TIẾN: GIẢI PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI PHÂN TÁN ĐẦY HỨA HẸN

Một trong những tác nhân gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt ô nhiễm nguồn nước mặt là do nước thải phân tán từ các khu dân cư, nhà máy, xí nghiệp... Thông qua Tiểu dự án Vệ sinh phân tán (DESA), các nhà khoa học của Trung tâm Kỹ thuật Môi trường Đô thị và Khu công nghiệp (CEETIA) thuộc Trường Đại học Xây dựng Hà Nội (đường Giải Phóng, Hà Nội - Tel: 0913209689, (04) 8698317; E-mail: vietanhctn@gmail.com; Website: www.epe.edu.vn/estvn/estvn.php) không chỉ nghiên cứu một cách hệ thống về các mô hình quản lý nước thải phân tán, mà còn cung cấp các giải pháp công nghệ xử lý hữu hiệu, trong đó có bể tự hoại cải tiến BAST và BASTAF.

Một trong những vấn đề môi trường mà Việt Nam đang phải đối mặt là sự ô nhiễm nguồn nước mặt do hầu hết nước thải chưa được xử lý tốt, đặc biệt tại các khu dân cư đô thị và nông thôn. Chỉ một phần nước thải từ các khu vệ sinh được xử lý sơ bộ bằng bể tự hoại, còn lại được thải trực tiếp vào hệ thống cống chung, kênh mương, ao hồ tự nhiên. Việc xây dựng các hệ thống xử lý nước thải tập trung mới chỉ được bắt đầu một cách chậm chạp ở các đô thị lớn, chủ yếu do điều kiện tài chính hạn hẹp. Do đó, ít nhất trong 20-30 năm tới, xử lý nước thải sinh hoạt phân tán ở quy mô hộ gia đình và cụm dân cư sẽ giữ vai trò quyết định trong bảo vệ môi trường đô thị, ven đô và nông thôn.

Trong khuôn khổ Dự án tăng cường năng lực cho CEETIA, do Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ, DESA đã được triển khai với mục tiêu cung cấp các kiến thức khoa học về các hệ thống xử lý nước thải phân tán, trong đó, tập trung vào xây dựng các giải pháp công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt phù hợp, thay thế bể tự hoại truyền thống - một công nghệ phổ biến ở Việt Nam. Các nghiên cứu được thực hiện công phu hơn 5 năm trong phòng thí nghiệm, trước khi gần 20 hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt cho hộ gia đình hoặc cụm dân cư được DESA thiết kế, lắp đặt, quan trắc và đánh giá. DESA cũng quan tâm đến các khía cạnh về quản lý nước thải phân tán. Một số nghiên cứu đã và đang được thực hiện, với sự hợp tác của các đối tác trong nước và quốc tế, xác định tiềm năng và hạn chế của các mô hình quản lý nước thải theo khía cạnh thể chế, tổ chức, tài chính, tăng cường năng lực - giáo dục truyền thông.

Bể tự hoại cải tiến với vách ngăn mỏng (baffled septic tank - BAST)

Bể tự hoại truyền thống là một công nghệ xử lý sơ bộ nước thải sinh hoạt phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay cũng như ở nhiều nước khác. Với bể tự hoại truyền thống, hai quá trình chủ yếu (lắng và phân huỷ kỵ khí cặn lắng) chỉ cho phép đạt hiệu suất xử lý tối đa theo cặn lơ lửng là 50% và theo chất hữu cơ COD là 30%. Trên thực tế, rất nhiều bể tự hoại truyền thống cho hiệu suất xử lý thấp hơn nhiều, do được thiết kế, xây dựng và quản lý không đúng quy cách. Nhóm nghiên cứu đã tìm cách cải tiến các bể tự hoại truyền thống bằng việc thay đổi cấu tạo bể, thêm vào các vách ngăn mỏng hướng dòng chảy thẳng đứng trong bể.
Mô hình xử lý nước thải trong phòng thí nghiệm đã được xây dựng gồm 2 mô hình: Mô hình A: 6 cột nhựa, mô phỏng các ngăn có dòng chảy hướng lên của bể tự hoại cải tiến; mô hình B: 2 cột nhựa, mô phỏng 2 cột lắng của bể tự hoại truyền thống. Các cột nhựa có chiều cao 1,5 m, đường kính 20 cm. Nước thải được bơm liên tục vào các mô hình. Lượng khí sinh học tạo thành được đo bằng các bộ đo khí tự động hiện số lắp vào mô hình. Các vách ngăn mỏng trong A bảo đảm sự tiếp xúc trực tiếp của dòng nước thải hướng lên và lớp bùn đáy bể - nơi chứa quần thể các vi khuẩn kỵ khí, cho phép nâng cao hiệu suất xử lý.
Trong giai đoạn thực nghiệm từ 11.2004 đến 5.2005, thời gian lưu nước (HRT) được thay đổi trong khoảng 12 đến 72 giờ, số vách ngăn mỏng từ 2 đến 6 ngăn. Nước thải toilet từ khu giảng đường Trường Đại học Xây dựng là nguồn nước được sử dụng trong nghiên cứu, với hàm lượng COD được khống chế ~ 500 mg/l, SS nằm trong khoảng 151-618 mg/l. Kết quả cho thấy:
Hiệu suất xử lý
Đối với bể BAST, hiệu suất xử lý trung bình theo CODts, CODlọc và SS đạt được khá ổn định, tương ứng là 58-76%, 47-61% và 61-78%, tuỳ thuộc vào HRT và số ngăn của bể. Bể tự hoại truyền thống B làm việc trong điều kiện tối ưu có hiệu suất xử lý CODt, CODl và SS thấp hơn nhiều, giá trị tương ứng là 48-65%, 33-54% và 44-69%.

Ảnh hưởng của HRT

Với HRT = 12-48 giờ, hiệu suất xử lý theo CODts, CODlọc, SS phụ thuộc rất nhiều vào HRT. Hiệu suất xử lý tăng khi HRT tăng. Khi tăng HRT lên trên 48 giờ thì hiệu suất xử lý theo cả CODts, CODlọc hay SS đều tăng không đáng kể. Việc tăng HRT cũng làm quá trình xử lý ổn định hơn, với độ lệch chuẩn của các giá trị hiệu suất xử lý theo CODts, CODlọc hay SS đều giảm.
Các kết quả cho thấy HRT = 48 giờ là tối ưu nhất đối với bể BAST. Giá trị này cũng phù hợp với thông số thiết kế bể tự hoại truyền thống đang được áp dụng trên toàn thế giới và số liệu cũng cho thấy bể tự hoại cải tiến có vách ngăn mỏng có hiệu suất xử lý cao hơn bể tự hoại truyền thống có cùng dung tích.

Vai trò của số ngăn trong bể BAST

Biểu đồ hình 3 cho thấy khi tăng số ngăn trong bể BAST hơn 4 ngăn, với cùng thời gian lưu nước 48 giờ, hiệu suất xử lý cũng tăng không đáng kể. Nếu cân nhắc đến cả khía cạnh kinh tế và vận hành, bảo dưỡng thì 24 ngăn là số ngăn được đề xuất lựa chọn cho thiết kế bể BAST.

Bể tự hoại cải tiến có vách ngăn mỏng và ngăn lọc kỵ khí (BASTAF) Để nghiên cứu nâng cao hiệu quả xử lý của bể BAST, nhóm nghiên cứu đã thêm một ngăn lọc kỵ khí vào vị trí ngăn cuối cùng. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngăn lọc với vật liệu là than xỉ hay các quả cầu chế tạo từ nhựa tái chế VABCO (kết quả một công trình nghiên cứu khác của PGS Nguyễn Việt Anh và các đồng nghiệp) cho phép nâng cao hiệu suất xử lý của bể trung bình ~ 10% theo COD và SS. Ngăn lọc kỵ khí còn đóng vai trò quan trọng trong việc tránh rửa trôi các chất rắn ra khỏi bể.

Kết quả nghiên cứu ngoài hiện trường
Nhóm nghiên cứu đã lắp đặt nhiều bể BAST và BASTAF thử nghiệm (pilot) ngoài hiện trường. Hình 5 cho thấy kết quả xử lý COD và SS của bể BASTAF P-01, lắp đặt tại một hộ gia đình 5 người ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Trong khoảng thời gian nghiên cứu từ 2.2003 đến 11.2005, mặc dù nước thải thô từ toilet có nồng độ đậm đặc và dao động (COD 1.5004.800 mg/l), nhưng hiệu quả xử lý các chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng rất cao và ổn định đã được ghi nhận: 77% (45,995,8%) đối với COD và 86,2% (69,197,3%) đối với SS.

Từ năm 2002 đến nay, 20 bể BAST và BASTAF đã được thiết kế, xây dựng tại các khu vực nội thành và ven đô Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, trong đó 14 bể đã đưa vào sử dụng. Các bể này được xây dựng với kích thước khác nhau, tuỳ thuộc đối tượng sử dụng: Từ bể xử lý nước đen cho các hộ gia đình đơn lẻ, đến bể xử lý nước thải sinh hoạt cho khu nhà chung cư cao tầng, trường học, cụm dân cư (một ngõ xóm), làng nghề nấu rượu, chế biến nông sản, hải sản… Các kết quả quan trắc thu được từ các bể BAST và BASTAF thử nghiệm khác nhau, xử lý nước thải làng nghề nấu rượu, chế biến nông sản thực phẩm, hay xử lý nước thải hộ gia đình đều cho thấy, đây là công nghệ rất hiệu quả để xử lý nước thải, cho phép đạt hiệu suất xử lý theo COD, SS và các chỉ tiêu khác cao, với chất lượng đầu ra ổn định, mặc dù sự dao động của lưu lượng và nồng độ chất bẩn của các loại nước thải là rất lớn. Bể BAST (bao gồm một ngăn lắng và hai ngăn có dòng chảy hướng lên) được đề xuất áp dụng cho các hộ gia đình có nước thải sau xử lý xả ra cống thoát nước công cộng; bể BASTAF với ngăn lọc kỵ khí ở cuối bể nên được áp dụng trong trường hợp nước thải sau xử lý thải ra môi trường. Ngăn lọc còn cho phép tách cặn lắng, tránh tắc trong các công trình xử lý nước thải phân tán tiếp theo như các bãi lọc ngầm, bể lọc cát...
Nhóm nghiên cứu DESA với công trình nghiên cứu về các mô hình xử lý nước thải phân tán với bể tự hoại cải tiến đã vinh dự được nhận Cúp môi trường Việt Nam tại Hội chợ - Triển lãm Quốc tế lần thứ I về Công nghệ môi trường, tổ chức tại Hà Nội 4.2006.


Link download:
http://w14.easy-share.com/12199221.html

Link trích dẫn:
http://www.nea.gov.vn/tapchi/toanvan/09-2k6-11.htm
http://www.thiennhien.net/news/147/ARTICLE/3417/2007-10-29.html
http://sokhoahoccn.angiang.gov.vn/xemnoidung.asp?maidtt=2800
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

magic06

Cây công nghiệp
Tham gia
8/12/07
Bài viết
326
Cảm xúc
1
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
B

babyprohut

Guest
An toàn hóa chất | an toàn lao động | Sự cố tràn dầu | Bộ ứng cứu tràn đổ 25L
Hehe, "mikethananh" post *** lên diễn ðàn nhé

(chắc vừa xem *** vừa post bài nên thế nào post nhầm) có trừ điểm không đấy Admin??????

Cái này không phải là*** đâu , mà đó là quảng cáo của các trang đấy ! Họ cho mình free thì cũng phải làm j để duy trì sự sống của họ chứ, cách mà cá trang này hay sài là Quảng cáo ... như bạn thấy !
 
D

doanthuvl2004

Guest
An toàn hóa chất | an toàn lao động | Sự cố tràn dầu | Bộ ứng cứu tràn đổ 25L
Nước thải sinh hoạt từ các khu vực nhà vệ sinh được xử lý sơ bộ qua hầm tự hoại (bể không thấm 2 – 3 ngăn), kích thước của bể tự hoại đạt yêu cầu 0,3 – 0,5 m3/người. Bể tự hoại được bố trí theo từng cụm tại những khu vực sản xuất, văn phòng, căn tin phù hợp với mặt bằng Dự án.

Bể tự hoại là công trình đồng thời làm 2 chức năng: lắng và phân huỷ cặn lắng. Cặn lắng giữ lại trong bể từ 6 - 8 tháng, dưới ảnh hưởng của các vi sinh vật kỵ khí, các chất hữu cơ bị phân huỷ, một phần tạo thành các chất khí và một phần tạo thành các chất vô cơ hòa tan. Sau khi qua hầm tự hoại các tác nhân ô nhiễm giảm 50% nhưng nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải sinh hoạt sau khi qua bể tự hoại vẫn còn cao hơn Tiêu chuẩn cho phép nên sẽ được thu gom xử lý tiếp tại trạm xử lý nước thải của Dự án trước khi thải ra môi trường.

Dung tích bể tự hoại của dự án có thể tính toán như sau:

W = Wn + Wb

Wn : thể tích nước của bể, lấy bằng 2/3 thể tích phần bùn của bể (m3)
Wb : thể tích bùn của bể (m3), được tính theo công thức sau:

Wc = [aT(100 – W1)bc]N/[(100 – W2)1000]

Trong đó:

a: Lượng cặn trung bình của một người thải ra: 0,7 – 0,8 lít/ngày.
b: Hệ số kể đến khả năng giảm thể tích cặn khi lên men: 0,7 (giảm 30%)
c: Hệ số kể đến việc để lại một phần cặn đã lên men khi hút cặn để duy trì vi sinh vật giúp cho quá trình lên men cặn được nhanh hơn: 1,2 (để lại 20%)
N: Số người mà bể phục vụ, 342 người
T: Thời gian giữa hai lần lấy cặn, 180 – 240 ngày
W¬1, W2: Độ ẩm cặn tươi vào bể và của cặn khi lên men, tương ứng là 95% và 90%.

Wb = 0.8 x 180 x (100 - 95) x 0.70 x 1.2 x 342
(100 – 90) x 1000
= 20.54 m3
Wn = 20,54 x 2/3 = 13.69 m3

Như vậy dung tích của bể tự hoại là : W = 13.69 + 20.54 = 34.23 m3

Cái này là ví dụ tính toán thôi á.

Hình sau giới thiệu mô hình bể tự hoại 3 ngăn thông dụng được dùng để xử lý cục bộ nước thải từ các khu nhà vệ sinh







Sơ đồ bể tự hoại 3 ngăn























Hình: Cấu tạo Bể tự hoại 3 ngăn.

Ghi chú:
A : Ngăn tự hoại (ngăn thứ nhất)
B : Ngăn lắng (ngăn thứ hai)
C : Ngăn lọc (ngăn thứ ba)
D : Ngăn định lượng với xi phông tự động.
1 - Ống dẫn nước thải vào bể tự hoại
2 - Ống thông hơi
3 - Hộp bảo vệ
4 - Nắp để hút cặn
5 - Đan bê tông cốt thép nắp bể
6 - Lỗ thông hơi
7 - Vật liệu lọc
8 - Đan rút nước
9 - Xi phông định lượng
10 - Ống dẫn nước thải nối vào hệ thống xử lý tiếp theo.
 

truonghiep

Mầm 2 lá
Tham gia
7/12/09
Bài viết
28
Cảm xúc
0
An toàn hóa chất | an toàn lao động | Sự cố tràn dầu | Bộ ứng cứu tràn đổ 25L
Thiết kế, xây dựng và sử dụng bể tự hoại
1. Giới thiệu
Bể tự hoại đầu tiên xuất hiện ở Pháp vào năm 1860, do kỹ sư Fosse Mouras phát minh ra. Cho đến nay, loại công trình xử lý nước thải tại chỗ này đã được phổ cập trên toàn Thế giới. Ở Việt Nam, bể tự hoại cũng trở nên ngày càng phổ biến. Bể tự hoại có thể phục vụ cho một khu vệ sinh, một hộ gia đình hay nhóm hộ gia đình, cho các đối tượng thải nước khác như bếp ăn tập thể, nhà hàng, khách sạn, khu du lịch, trường học, bệnh viện, văn phòng làm việc, các cơ sở chăn nuôi và chế biến nông sản, thực phẩm, vv...
Bể tự hoại được sử dụng phổ biến ở nhiều nơi bởi có nhiều ưu điểm như hiệu suất xử lý ổn định, kể cả khi dòng nước thải đầu vào có dao động lớn, chiếm ít diện tích, giá thành rẻ và việc xây dựng, quản lý đơn giản, nên dễ được chấp nhận. Tuy nhiên, để phát huy vai trò của công trình xử lý nước thải tại chỗ này, cần thiết kế, thi công xây dựng, lắp đặt và quản lý vận hành, bảo dưỡng bể tự hoại đúng, nhất là với điều kiện ở nước ta hiện nay, khi phần lớn nước thải, sau khi xử lý sơ bộ ở bể tự hoại, được xả trực tiếp ra nguồn tiếp nhận mà không qua bất kỳ một khâu xử lý nào tiếp theo. Việc hiểu rõ và làm tốt công tác thiết kế, thi công lắp đặt và quản lý vận hành - bảo dưỡng bể tự hoại còn góp phần nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng, quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị và bảo vệ môi trường.
Trong bể tự hoại diễn ra quá trình lắng cặn và lên men, phân huỷ sinh học kỵ khí cặn lắng. Các chất hữu cơ trong nước thải và bùn cặn đã lắng, chủ yếu là các Hydrocacbon, đạm, béo, ... được phân hủy bởi các vi khuẩn kỵ khí và các loại nấm men. Nhờ vậy, cặn lên men, bớt mùi hôi, giảm thể tích. Chất không tan chuyển thành chất tan và chất khí (chủ yếu là CH4, CO2, H2S, NH3, ...). Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý nước thải và tốc độ phân huỷ bùn cặn trong bể tự hoại: nhiệt độ và các yếu tố môi trường khác; lưu lượng dòng thải và thời gian lưu nước tương ứng; tải trọng chất bẩn (rất phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng của người sử dụng bể hay loại nước thải nói chung); hệ số không điều hoà và lưu lượng tối đa; các thông số thiết kế và cấu tạo bể: số ngăn bể, chiều cao, phương pháp bố trí đường ống dẫn nước vào và ra khỏi bể, qua các vách ngăn, ...
Bể tự hoại được thiết kế và xây dựng đúng cho phép đạt hiệu suất lắng cặn trung bình 50 - 70% theo cặn lơ lửng (TSS) và 25 - 45% theo chất hữu cơ (BOD và COD) (Nguyễn Việt Anh và nnk, 2006, Bounds, 1997, Polprasert, 1982). Các mầm bệnh có trong phân cũng được loại bỏ một phần trong bể tự hoại, chủ yếu nhờ cơ chế hấp phụ lên cặn và lắng xuống, hoặc chết đi do thời gian lưu bùn và nước trong bể lớn, do môi trường sống không thích hợp. Cũng chính vì vậy, trong phân bùn bể tự hoại chứa một lượng rất lớn các mầm bệnh có nguồn gốc từ phân.
Bể tự hoại ở hầu hết các nước đều tiếp nhận và xử lý cả hai loại nước thải trong hộ gia đình - nước đen và nước xám. Nước thải sau bể tự hoại được dẫn tới các công trình xử lý tại chỗ (bãi lọc ngầm, bể sinh học hiếu khí, vv...) hay tập trung, theo cụm, ...
Bể tự hoại được du nhập vào Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Thời đó, chỉ có một số công trình xây dựng mới có trang bị bể tự hoại (có hoặc không có ngăn lọc), xử lý cả nước đen và nước xám. Dần dần, do sự phát triển của đô thị, các công trình được cơi nới, xây dựng thêm, các khu như mới mọc lên, nhưng việc xây dựng các tuyến cống thu gom nước thải và tách riêng nước thải ra khỏi nước mưa không theo kịp với sự phát triển, người ta đấu thẳng đường ống dẫn nước xám và nước nhà bếp ra ngoài hệ thống cống chung, chỉ còn có nước đen chảy vào bể tự hoại. Đây là bức tranh rất phổ biến ở các đô thị ở Việt Nam hiện nay. Phương thức này cũng đã lan rộng nhanh chóng ra các vùng ven đô và vùng nông thôn. Nhiều bể tự hoại được thiết kế, xây dựng và vận hành không đúng quy cách về kích thước tối thiểu, cách bố trí đường ống, vách ngăn, làm sinh ra dòng chảy tắt trong bể, sục bùn và váng cặn, bể bị rò rỉ làm ô nhiễm và nước ngầm thấm vào,... Đúng ra, bùn cặn trong bể tự hoại phải được hút theo chu kỳ từ 1 đến 3 năm, nhưng trong thực tế, nhiều bể tới 7 hoặc 10 năm mới được hút, khi hộ gia đình gặp phải những vấn đề như tắc, tràn nước, mùi hôi, ..., nên hiệu quả làm việc thấp.
Bên cạnh loại bể tự hoại truyền thống, còn có các loại bể tự hoại sau: bể tự hoại có ngăn lọc hiếu khí, ngăn lọc kỵ khí, hay có lõi lọc tháo lắp được; bể tự hoại với các vách ngăn mỏng dòng hướng lên (bể BAST); bể tự hoại với các vách ngăn mỏng dòng hướng lên và ngăn lọc kỵ khí (bể BASTAF); bể tự hoại có ngăn bơm (trong hệ thống thoát nước gồm các bể tự hoại và đường ống áp lực); các loại bể tự hoại khác, kết hợp với các quá trình xử lý như xử lý hiếu khí có sục khí nhân tạo, có dòng tuần hoàn, có thu khí sinh học, vv... Chi tiết về các loại bể này được trình bày trong cuốn sách: Bể tự hoại và Bể tự hoại cải tiến, Nhà xuất bản Xây dựng, 9/2007 của cùng tác giả.
2. Thiết kế bể tự hoại
Tổng dung tích của bể tự hoại V (m3) được tính bằng tổng dung tích ướt (dung tích hữu ích) của bể tự hoại VƯ, cộng với dung tích phần lưu không tính từ mặt nước lên tấm đan nắp bể V¬k.
V = VƯ + Vk (1)
Dung tích ướt của bể tự hoại bao gồm 4 vùng phân biệt, tính từ dưới lên trên:
- Vùng tích luỹ bùn cặn đã phân huỷ Vt;
- Vùng chứa cặn tươi, đang tham gia quá trình phân huỷ Vb;
- Vùng tách cặn (vùng lắng) Vn;
- Vùng tích luỹ váng - chất nổi Vv (xem Hình 1).







Vư = Vn + Vb + Vt + Vv (2)
Dung tích vùng lắng - tách cặn Vn: được xác định theo loại nước thải, thời gian lưu nước tn và lượng nước thải chảy vμo bể Q, có tính đến giá trị lưu lượng tức thời của dòng nước thải. Thời gian lưu nước tối thiểu tn được xác định theo Bảng 1.
Bảng 1. Thời gian lưu nước tối thiểu trong vùng lắng của bể tự hoại

Lưu lượng nước thải Q, m3/ngày Thời gian lưu nước tối thiểu tn, ngày
Bể tự hoại xử lý nước đen + xám Bể tự hoại xử lý nước đen từ WC
< 6 1 2
7 - 8 0,9 1,8
9 0,8 1,6
10 -11 0,7 1,4
12 0,6 1,3
13 0,6 1,2
>14 0,5 1

Dung tích cần thiết vùng tách cặn của bể tự hoại Vn (m3) bằng:
Vn = Q.tn = N.qo.tn /1000 (3)
Trong đó:
N - số người sử dụng bể, người;
qo - tiêu chuẩn thải nước, tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và mức độ trang thiết bị vệ sinh của ngôi nhà. Có thể sơ bộ lấy qo cho bể tự hoại chỉ tiếp nhận nước đen là 30 - 60 l/người.ngày, hỗn hợp nước đen và nước xám là 100 - 150 l/người.ngày.
- Dung tích vùng phân huỷ cặn tươi Vb (m3):
Vb = 0,5.N.tb/1000 (4)
 

nngoctu

Cây công nghiệp
Tham gia
1/10/09
Bài viết
275
Cảm xúc
6

haphan

Mầm 2 lá
Tham gia
3/7/08
Bài viết
33
Cảm xúc
0
An toàn hóa chất | an toàn lao động | Sự cố tràn dầu | Bộ ứng cứu tràn đổ 25L
Bể tự hoại cải tiến (BASTAF) có xử lý được nước thải tắm giặt, rửa sàn, nấu ăn. Noi chung là nước thải chứa dầu mỡ. Nếu được thì hiệu suất bao nhiêu % và nguyên lý như thế nào.

Nguyên tắc làm việc của bể tự hoại bastaf
Nước thải được đưa vào ngăn thứ nhất của bể, có vai trò làm ngăn lắng – lên men kỵ khí, đồng thời điều hòa lưu lượng và nồng độ chất bẩn trong dòng nước thải vào bể. Nhờ các vách ngăn hướng dòng, ở những ngăn tiếp theo, nước thải chuyển động theo chiều từ dưới lên trên, tiếp xúc với các vi sinh vật kỵ khí trong lớp bùn hình thành ở đáy bể trong điều kiện động, các chất bẩn hữu cơ được các vi sinh vật hấp thụ và chuyển hóa, làm nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển của chúng. Cũng nhờ có các ngăn này, công trình trở thành một dãy bể phản ứng kỵ khí được bố trí nối tiếp, cho phép tách riêng 2 pha (lên men axit và lên men kiềm). Quần thể vi sinh vật trong từng ngăn sẽ khác nhau và có điều kiện phát triển thuận lợi. Ở những ngăn đầu, các vi khuẩn tạo axit sẽ chiếm ưu thế, trong khi ở những ngăn sau, các vi khuẩn tạo mêtan sẽ là chủ yếu. Bast cho phép tăng thời gian lưu bùn, nhờ vậy hiệu suất xử lý tăng trong khi lượng bùn cần xử lý lại giảm. Để nâng cao hiệu quả xử lý của bể Bast, có thể bố trí một ngăn lọc kỵ khí vào cuối bể (bể BASTAF). Các ngăn lọc lỵ khí có tác dụng làm sạch bổ sung nước thải, nhờ các vi sinh vật kỵ khí gắn bám trên bề mặt các hạt của lớp vật liệu lọc, và ngăn cặn lơ lửng trôi ra theo nước.

Hiệu suất xử lý
Cùng với thời gian lưu nước tối ưu (48 giờ) hay có cùng dung tích ướt, bể tự hoại với các vách ngăn mỏng dòng hướng lên và ngăn lọc kỵ khí BASTAF cho phép đạt hiệu suất xử lý cao nhất (trung bình 86,3%, 74,2% và 90,8% tương ứng theo COD, BOD5 và SS)

Bể Bast và Bastaf có thể xử lý nước đen và nước xám; hoặc nước đen tùy theo số lượng người sử dụng bể.
 

Phan Hoài Thu

Mầm xanh
Tham gia
8/10/09
Bài viết
19
Cảm xúc
0
An toàn hóa chất | an toàn lao động | Sự cố tràn dầu | Bộ ứng cứu tràn đổ 25L
Nước thải sinh hoạt từ các khu vực nhà vệ sinh được xử lý sơ bộ qua hầm tự hoại (bể không thấm 2 – 3 ngăn), kích thước của bể tự hoại đạt yêu cầu 0,3 – 0,5 m3/người. Bể tự hoại được bố trí theo từng cụm tại những khu vực sản xuất, văn phòng, căn tin phù hợp với mặt bằng Dự án.

Bể tự hoại là công trình đồng thời làm 2 chức năng: lắng và phân huỷ cặn lắng. Cặn lắng giữ lại trong bể từ 6 - 8 tháng, dưới ảnh hưởng của các vi sinh vật kỵ khí, các chất hữu cơ bị phân huỷ, một phần tạo thành các chất khí và một phần tạo thành các chất vô cơ hòa tan. Sau khi qua hầm tự hoại các tác nhân ô nhiễm giảm 50% nhưng nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải sinh hoạt sau khi qua bể tự hoại vẫn còn cao hơn Tiêu chuẩn cho phép nên sẽ được thu gom xử lý tiếp tại trạm xử lý nước thải của Dự án trước khi thải ra môi trường.

Dung tích bể tự hoại của dự án có thể tính toán như sau:

W = Wn + Wb

Wn : thể tích nước của bể, lấy bằng 2/3 thể tích phần bùn của bể (m3)
Wb : thể tích bùn của bể (m3), được tính theo công thức sau:

Wc = [aT(100 – W1)bc]N/[(100 – W2)1000]

Trong đó:

a: Lượng cặn trung bình của một người thải ra: 0,7 – 0,8 lít/ngày.
b: Hệ số kể đến khả năng giảm thể tích cặn khi lên men: 0,7 (giảm 30%)
c: Hệ số kể đến việc để lại một phần cặn đã lên men khi hút cặn để duy trì vi sinh vật giúp cho quá trình lên men cặn được nhanh hơn: 1,2 (để lại 20%)
N: Số người mà bể phục vụ, 342 người
T: Thời gian giữa hai lần lấy cặn, 180 – 240 ngày
W¬1, W2: Độ ẩm cặn tươi vào bể và của cặn khi lên men, tương ứng là 95% và 90%.

Wb = 0.8 x 180 x (100 - 95) x 0.70 x 1.2 x 342
(100 – 90) x 1000
= 20.54 m3
Wn = 20,54 x 2/3 = 13.69 m3

Như vậy dung tích của bể tự hoại là : W = 13.69 + 20.54 = 34.23 m3

Cái này là ví dụ tính toán thôi á.

Hình sau giới thiệu mô hình bể tự hoại 3 ngăn thông dụng được dùng để xử lý cục bộ nước thải từ các khu nhà vệ sinh







Sơ đồ bể tự hoại 3 ngăn























Hình: Cấu tạo Bể tự hoại 3 ngăn.

Ghi chú:
A : Ngăn tự hoại (ngăn thứ nhất)
B : Ngăn lắng (ngăn thứ hai)
C : Ngăn lọc (ngăn thứ ba)
D : Ngăn định lượng với xi phông tự động.
1 - Ống dẫn nước thải vào bể tự hoại
2 - Ống thông hơi
3 - Hộp bảo vệ
4 - Nắp để hút cặn
5 - Đan bê tông cốt thép nắp bể
6 - Lỗ thông hơi
7 - Vật liệu lọc
8 - Đan rút nước
9 - Xi phông định lượng
10 - Ống dẫn nước thải nối vào hệ thống xử lý tiếp theo.

sao mình không thấy được cái sơ đồ cấu tạo j hết dzị?
 

Snow_wolf

Cây cổ thụ
Tham gia
22/5/07
Bài viết
1,130
Cảm xúc
14

samhoang071014

Mầm xanh
Tham gia
20/4/17
Bài viết
5
Cảm xúc
0
An toàn hóa chất | an toàn lao động | Sự cố tràn dầu | Bộ ứng cứu tràn đổ 25L
Chúng ta có thể dễ dàng nhận biết được ưu điểm của vách ngăn vệ sinh tiểu nam bằng sứ thông qua chất liệu, kiểu dáng và đặc điểm của loại vật liệu này

  • Ngăn cách các không gian vệ sinh một cách dễ dàng
  • Giúp không gian vệ sinh trở nên đẹp, sang trọng nhờ được làm từ chất liệu sứ cao cấp
  • Dễ lau chùi, vệ sinh cũng như tạo được sự thoải mái cho không gian vệ sinh
  • Có khả năng chống nước cao
  • Lắp đặt dễ dàng, nhanh chóng, phù hợp với nhiều loại công trình khác nhau.
  • Vách ngăn tiểu nam bằng sứ có khả năng phân chia không gian một cách dễ dàng, không tạo cảm giác bó buộc cho không gian.
Nhược điểm của vách ngăn tiểu nam bằng sứ
Bên cạnh các ưu điểm của vách ngăn tiểu nam bằng sứ trên. Loại vách ngăn này cũng có một số nhược điểm cần chú ý để có thể so sánh được với các loại vách ngăn khác.
  • Kích thước vách ngăn tiểu nam bằng sứ không da dạng, không điều chỉnh được kích thước vách ngăn theo như ý muốn vì tuân theo kích thước tiêu chuẩn
  • Màu sắc của vách ngăn thường ít màu. Thông thường chỉ có 2 màu là trắng và xám sứ.
  • Chất liệu bằng sứ cao cấp nhưng khả năng vỡ, hỏng trong quá trình sử dụng khá cao
  • Giá thành của sản phẩm thường tương đối cao, không phù hợp với những công trình muốn tiết kiệm chi phí. Khi vận chuyển cần sự cẩn thận và chú ý để không khó khăn.
  • Khó vận chuyển đi xa so với nhiều loại vật liệu khác.
  • Hiện nay còn có khá nhiều chất liệu khác có thể thay thế cho chất liệu sứ như vách vệ sinh MFC hoặc vách ngăn vệ sinh compact HPL có thể khắc phục các nhược điểm của sản phẩm để có thể lựa chọn được sản phẩm phù hợp nhất.
https://storage.googleapis.com/vachnganvesinhcaocap/co-nen-su-dung-vach-ngan-tieu-nam-bang-su.html
 

hongks06

Hạt giống tốt
Tham gia
28/4/19
Bài viết
1
Cảm xúc
0
An toàn hóa chất | an toàn lao động | Sự cố tràn dầu | Bộ ứng cứu tràn đổ 25L
Thông tin về bể tự hoại cải tiến nè. Anh em xem rồi cho ý kiến nhé mình thấy nó nói hiệu suất xử lí cao gấp mấy lần công nghệ cũ...nhưng ko biết thực hư ra sao .

BỂ TỰ HOẠI CẢI TIẾN: GIẢI PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI PHÂN TÁN ĐẦY HỨA HẸN

Một trong những tác nhân gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt ô nhiễm nguồn nước mặt là do nước thải phân tán từ các khu dân cư, nhà máy, xí nghiệp... Thông qua Tiểu dự án Vệ sinh phân tán (DESA), các nhà khoa học của Trung tâm Kỹ thuật Môi trường Đô thị và Khu công nghiệp (CEETIA) thuộc Trường Đại học Xây dựng Hà Nội (đường Giải Phóng, Hà Nội - Tel: 0913209689, (04) 8698317; E-mail: vietanhctn@gmail.com; Website: www.epe.edu.vn/estvn/estvn.php) không chỉ nghiên cứu một cách hệ thống về các mô hình quản lý nước thải phân tán, mà còn cung cấp các giải pháp công nghệ xử lý hữu hiệu, trong đó có bể tự hoại cải tiến BAST và BASTAF.

Một trong những vấn đề môi trường mà Việt Nam đang phải đối mặt là sự ô nhiễm nguồn nước mặt do hầu hết nước thải chưa được xử lý tốt, đặc biệt tại các khu dân cư đô thị và nông thôn. Chỉ một phần nước thải từ các khu vệ sinh được xử lý sơ bộ bằng bể tự hoại, còn lại được thải trực tiếp vào hệ thống cống chung, kênh mương, ao hồ tự nhiên. Việc xây dựng các hệ thống xử lý nước thải tập trung mới chỉ được bắt đầu một cách chậm chạp ở các đô thị lớn, chủ yếu do điều kiện tài chính hạn hẹp. Do đó, ít nhất trong 20-30 năm tới, xử lý nước thải sinh hoạt phân tán ở quy mô hộ gia đình và cụm dân cư sẽ giữ vai trò quyết định trong bảo vệ môi trường đô thị, ven đô và nông thôn.

Trong khuôn khổ Dự án tăng cường năng lực cho CEETIA, do Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ, DESA đã được triển khai với mục tiêu cung cấp các kiến thức khoa học về các hệ thống xử lý nước thải phân tán, trong đó, tập trung vào xây dựng các giải pháp công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt phù hợp, thay thế bể tự hoại truyền thống - một công nghệ phổ biến ở Việt Nam. Các nghiên cứu được thực hiện công phu hơn 5 năm trong phòng thí nghiệm, trước khi gần 20 hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt cho hộ gia đình hoặc cụm dân cư được DESA thiết kế, lắp đặt, quan trắc và đánh giá. DESA cũng quan tâm đến các khía cạnh về quản lý nước thải phân tán. Một số nghiên cứu đã và đang được thực hiện, với sự hợp tác của các đối tác trong nước và quốc tế, xác định tiềm năng và hạn chế của các mô hình quản lý nước thải theo khía cạnh thể chế, tổ chức, tài chính, tăng cường năng lực - giáo dục truyền thông.

Bể tự hoại cải tiến với vách ngăn mỏng (baffled septic tank - BAST)

Bể tự hoại truyền thống là một công nghệ xử lý sơ bộ nước thải sinh hoạt phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay cũng như ở nhiều nước khác. Với bể tự hoại truyền thống, hai quá trình chủ yếu (lắng và phân huỷ kỵ khí cặn lắng) chỉ cho phép đạt hiệu suất xử lý tối đa theo cặn lơ lửng là 50% và theo chất hữu cơ COD là 30%. Trên thực tế, rất nhiều bể tự hoại truyền thống cho hiệu suất xử lý thấp hơn nhiều, do được thiết kế, xây dựng và quản lý không đúng quy cách. Nhóm nghiên cứu đã tìm cách cải tiến các bể tự hoại truyền thống bằng việc thay đổi cấu tạo bể, thêm vào các vách ngăn mỏng hướng dòng chảy thẳng đứng trong bể.
Mô hình xử lý nước thải trong phòng thí nghiệm đã được xây dựng gồm 2 mô hình: Mô hình A: 6 cột nhựa, mô phỏng các ngăn có dòng chảy hướng lên của bể tự hoại cải tiến; mô hình B: 2 cột nhựa, mô phỏng 2 cột lắng của bể tự hoại truyền thống. Các cột nhựa có chiều cao 1,5 m, đường kính 20 cm. Nước thải được bơm liên tục vào các mô hình. Lượng khí sinh học tạo thành được đo bằng các bộ đo khí tự động hiện số lắp vào mô hình. Các vách ngăn mỏng trong A bảo đảm sự tiếp xúc trực tiếp của dòng nước thải hướng lên và lớp bùn đáy bể - nơi chứa quần thể các vi khuẩn kỵ khí, cho phép nâng cao hiệu suất xử lý.
Trong giai đoạn thực nghiệm từ 11.2004 đến 5.2005, thời gian lưu nước (HRT) được thay đổi trong khoảng 12 đến 72 giờ, số vách ngăn mỏng từ 2 đến 6 ngăn. Nước thải toilet từ khu giảng đường Trường Đại học Xây dựng là nguồn nước được sử dụng trong nghiên cứu, với hàm lượng COD được khống chế ~ 500 mg/l, SS nằm trong khoảng 151-618 mg/l. Kết quả cho thấy:
Hiệu suất xử lý
Đối với bể BAST, hiệu suất xử lý trung bình theo CODts, CODlọc và SS đạt được khá ổn định, tương ứng là 58-76%, 47-61% và 61-78%, tuỳ thuộc vào HRT và số ngăn của bể. Bể tự hoại truyền thống B làm việc trong điều kiện tối ưu có hiệu suất xử lý CODt, CODl và SS thấp hơn nhiều, giá trị tương ứng là 48-65%, 33-54% và 44-69%.

Ảnh hưởng của HRT

Với HRT = 12-48 giờ, hiệu suất xử lý theo CODts, CODlọc, SS phụ thuộc rất nhiều vào HRT. Hiệu suất xử lý tăng khi HRT tăng. Khi tăng HRT lên trên 48 giờ thì hiệu suất xử lý theo cả CODts, CODlọc hay SS đều tăng không đáng kể. Việc tăng HRT cũng làm quá trình xử lý ổn định hơn, với độ lệch chuẩn của các giá trị hiệu suất xử lý theo CODts, CODlọc hay SS đều giảm.
Các kết quả cho thấy HRT = 48 giờ là tối ưu nhất đối với bể BAST. Giá trị này cũng phù hợp với thông số thiết kế bể tự hoại truyền thống đang được áp dụng trên toàn thế giới và số liệu cũng cho thấy bể tự hoại cải tiến có vách ngăn mỏng có hiệu suất xử lý cao hơn bể tự hoại truyền thống có cùng dung tích.

Vai trò của số ngăn trong bể BAST

Biểu đồ hình 3 cho thấy khi tăng số ngăn trong bể BAST hơn 4 ngăn, với cùng thời gian lưu nước 48 giờ, hiệu suất xử lý cũng tăng không đáng kể. Nếu cân nhắc đến cả khía cạnh kinh tế và vận hành, bảo dưỡng thì 24 ngăn là số ngăn được đề xuất lựa chọn cho thiết kế bể BAST.

Bể tự hoại cải tiến có vách ngăn mỏng và ngăn lọc kỵ khí (BASTAF) Để nghiên cứu nâng cao hiệu quả xử lý của bể BAST, nhóm nghiên cứu đã thêm một ngăn lọc kỵ khí vào vị trí ngăn cuối cùng. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngăn lọc với vật liệu là than xỉ hay các quả cầu chế tạo từ nhựa tái chế VABCO (kết quả một công trình nghiên cứu khác của PGS Nguyễn Việt Anh và các đồng nghiệp) cho phép nâng cao hiệu suất xử lý của bể trung bình ~ 10% theo COD và SS. Ngăn lọc kỵ khí còn đóng vai trò quan trọng trong việc tránh rửa trôi các chất rắn ra khỏi bể.

Kết quả nghiên cứu ngoài hiện trường
Nhóm nghiên cứu đã lắp đặt nhiều bể BAST và BASTAF thử nghiệm (pilot) ngoài hiện trường. Hình 5 cho thấy kết quả xử lý COD và SS của bể BASTAF P-01, lắp đặt tại một hộ gia đình 5 người ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Trong khoảng thời gian nghiên cứu từ 2.2003 đến 11.2005, mặc dù nước thải thô từ toilet có nồng độ đậm đặc và dao động (COD 1.5004.800 mg/l), nhưng hiệu quả xử lý các chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng rất cao và ổn định đã được ghi nhận: 77% (45,995,8%) đối với COD và 86,2% (69,197,3%) đối với SS.

Từ năm 2002 đến nay, 20 bể BAST và BASTAF đã được thiết kế, xây dựng tại các khu vực nội thành và ven đô Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, trong đó 14 bể đã đưa vào sử dụng. Các bể này được xây dựng với kích thước khác nhau, tuỳ thuộc đối tượng sử dụng: Từ bể xử lý nước đen cho các hộ gia đình đơn lẻ, đến bể xử lý nước thải sinh hoạt cho khu nhà chung cư cao tầng, trường học, cụm dân cư (một ngõ xóm), làng nghề nấu rượu, chế biến nông sản, hải sản… Các kết quả quan trắc thu được từ các bể BAST và BASTAF thử nghiệm khác nhau, xử lý nước thải làng nghề nấu rượu, chế biến nông sản thực phẩm, hay xử lý nước thải hộ gia đình đều cho thấy, đây là công nghệ rất hiệu quả để xử lý nước thải, cho phép đạt hiệu suất xử lý theo COD, SS và các chỉ tiêu khác cao, với chất lượng đầu ra ổn định, mặc dù sự dao động của lưu lượng và nồng độ chất bẩn của các loại nước thải là rất lớn. Bể BAST (bao gồm một ngăn lắng và hai ngăn có dòng chảy hướng lên) được đề xuất áp dụng cho các hộ gia đình có nước thải sau xử lý xả ra cống thoát nước công cộng; bể BASTAF với ngăn lọc kỵ khí ở cuối bể nên được áp dụng trong trường hợp nước thải sau xử lý thải ra môi trường. Ngăn lọc còn cho phép tách cặn lắng, tránh tắc trong các công trình xử lý nước thải phân tán tiếp theo như các bãi lọc ngầm, bể lọc cát...
Nhóm nghiên cứu DESA với công trình nghiên cứu về các mô hình xử lý nước thải phân tán với bể tự hoại cải tiến đã vinh dự được nhận Cúp môi trường Việt Nam tại Hội chợ - Triển lãm Quốc tế lần thứ I về Công nghệ môi trường, tổ chức tại Hà Nội 4.2006.


Link download: http://w14.easy-share.com/12199221.html

Link trích dẫn:
http://www.nea.gov.vn/tapchi/toanvan/09-2k6-11.htm
http://www.thiennhien.net/news/147/ARTICLE/3417/2007-10-29.html
http://sokhoahoccn.angiang.gov.vn/xemnoidung.asp?maidtt=2800
Link download bị die rồi bạn ơi
 

Grac đô thị không rác

Chủ đề mới

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
10,833
Bài viết
42,126
Thành viên
31,234
Thành viên mới nhất
khachmua