Ngan2001
Mầm xanh
- Tham gia
- 8/7/19
- Bài viết
- 25
- Cảm xúc
- 24
Các mô hình và tài chính cho quản lý chất thải rắn
a) Mô hình quản lý
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, ở hầu hết các quốc gia, quản lý CTR là trách nhiệm của chính quyền địa phương; rất ít chính quyền trung ương trực tiếp liên quan đến quản lý CTR ngoài việc ban hành chính sách, giám sát hoặc trợ cấp. Trên thế giới có khoảng 70% dịch vụ chất thải rắn được giám sát trực tiếp bởi các địa phương, phần còn lại được quản lý thông qua các cơ quan liên tỉnh, các tổ chức công-tư hoặc các công ty tư nhân. Khoảng 50% các dịch vụ về quản lý CTR được điều hành bởi các cơ quan công lập. Khoảng 1/3 các dịch vụ thu gom về xử lý và chôn lấp chất thải được vận hành thông qua đối tác công-tư. Khu vực tư nhân thường được tham gia thông qua các hợp đồng về thu gom, xử lý và chôn lấp, trong đó, thời hạn các hợp đồng thường dưới 10 năm (Silpa K. et al, 2018).
Theo nghiên cứu của Viện Chiến lược môi trường toàn cầu (IGES) và trung tâm phát triển vùng Liên hợp quốc về quản lý CTR ở châu Á - Thái Bình Dương, nhìn chung, thực trạng quản lý CTR có thể được tổng hợp ở 3 cấp độ từ thấp lên cao (Bảng 1). Qua đó, có thể thấy công tác quản lý CTR ở Việt Nam đang ở cấp độ 1, là cấp độ thấp nhất trong khu vực.
b) Tài chính cho quản lý CTR
Chi phí thu gom, vận chuyển và chôn lấp CTR ở các nước thu nhập cao thường cao hơn ở các nước thu nhập thấp từ 4-5 lần (Bảng 2). Quản lý CTR thường chiếm khoảng 20% tổng chi phí hoạt động của chính quyền đô thị tại các quốc gia có thu nhập thấp, hơn 10% đối với các quốc gia có thu nhập trung bình và 4% đối với các nước thu nhập cao. Các hệ thống quản lý CTR hiện đại hơn có chi phí từ 50-100$/tấn hoặc có thể cao hơn . Việc lựa chọn biện pháp quản lý và công nghệ xử lý chất thải phụ thuộc nhiều và điều kiện cụ thể của địa phương và khả năng đầu tư xây dựng cũng như quản lý vận hành hệ thống (Silpa K. et al, 2018).
Về phí CTR, mức phí dao động ở mức trung bình ~37$/hộ gia đình/năm đối với các quốc gia thu nhập thấp đến ~168$/hộ gia đình/năm tại các quốc gia có thu nhập cao. Trong đó đáng lưu ý là 61% nước thu nhập trung bình thấp đang thu đồng đều đối với mỗi hộ, 4% thu theo khối lượng chất thải, trong khi ở các nước thu nhập cao, tỷ lệ này là 27% và 47%.
Ở Việt Nam hiện nay, chi phí quản lý CTR cho 01 tấn chất thải ở Hà Nội ước tính là 24 USD cho thu gom, 11 USD cho vận chuyển và 4 USD cho chôn lấp. Mức phí CTR trung bình cho mỗi hộ gia đình ở Hà Nội là 26.500 VNĐ/hộ/tháng hoặc 218.630 VNĐ/tấn (9.7 USD/tấn) bao gồm 172,600 VNĐ/tấn (7,6 USD/tấn) cho thu gom và 46,030 VNĐ/tấn (2 USD/tấn) cho vận chuyển (Ngân hàng Thế giới, 2019).
Chỉ ở các quốc gia có thu nhập cao, nguồn thu từ phí rác thải đủ để vận hành hệ thống QLCTR. Hầu hết các quốc gia có thu nhập thấp và một số ít quốc gia có thu nhập cao như Hàn Quốc và Nhật Bản, hoạt động quản lý CTR được trợ cấp từ nguồn ngân sách nhà nước. Hợp tác đối tác công-tư (PPP) có tiềm năng giảm gánh nặng đối với ngân sách, tuy nhiên, nếu PPP không được cấu trúc và quản lý đúng cách có thể dẫn đến sự thỏa hiệp về chất lượng dịch vụ (Silpa K. et al, 2018).
St
a) Mô hình quản lý
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, ở hầu hết các quốc gia, quản lý CTR là trách nhiệm của chính quyền địa phương; rất ít chính quyền trung ương trực tiếp liên quan đến quản lý CTR ngoài việc ban hành chính sách, giám sát hoặc trợ cấp. Trên thế giới có khoảng 70% dịch vụ chất thải rắn được giám sát trực tiếp bởi các địa phương, phần còn lại được quản lý thông qua các cơ quan liên tỉnh, các tổ chức công-tư hoặc các công ty tư nhân. Khoảng 50% các dịch vụ về quản lý CTR được điều hành bởi các cơ quan công lập. Khoảng 1/3 các dịch vụ thu gom về xử lý và chôn lấp chất thải được vận hành thông qua đối tác công-tư. Khu vực tư nhân thường được tham gia thông qua các hợp đồng về thu gom, xử lý và chôn lấp, trong đó, thời hạn các hợp đồng thường dưới 10 năm (Silpa K. et al, 2018).
Theo nghiên cứu của Viện Chiến lược môi trường toàn cầu (IGES) và trung tâm phát triển vùng Liên hợp quốc về quản lý CTR ở châu Á - Thái Bình Dương, nhìn chung, thực trạng quản lý CTR có thể được tổng hợp ở 3 cấp độ từ thấp lên cao (Bảng 1). Qua đó, có thể thấy công tác quản lý CTR ở Việt Nam đang ở cấp độ 1, là cấp độ thấp nhất trong khu vực.
b) Tài chính cho quản lý CTR
Chi phí thu gom, vận chuyển và chôn lấp CTR ở các nước thu nhập cao thường cao hơn ở các nước thu nhập thấp từ 4-5 lần (Bảng 2). Quản lý CTR thường chiếm khoảng 20% tổng chi phí hoạt động của chính quyền đô thị tại các quốc gia có thu nhập thấp, hơn 10% đối với các quốc gia có thu nhập trung bình và 4% đối với các nước thu nhập cao. Các hệ thống quản lý CTR hiện đại hơn có chi phí từ 50-100$/tấn hoặc có thể cao hơn . Việc lựa chọn biện pháp quản lý và công nghệ xử lý chất thải phụ thuộc nhiều và điều kiện cụ thể của địa phương và khả năng đầu tư xây dựng cũng như quản lý vận hành hệ thống (Silpa K. et al, 2018).
Về phí CTR, mức phí dao động ở mức trung bình ~37$/hộ gia đình/năm đối với các quốc gia thu nhập thấp đến ~168$/hộ gia đình/năm tại các quốc gia có thu nhập cao. Trong đó đáng lưu ý là 61% nước thu nhập trung bình thấp đang thu đồng đều đối với mỗi hộ, 4% thu theo khối lượng chất thải, trong khi ở các nước thu nhập cao, tỷ lệ này là 27% và 47%.
Ở Việt Nam hiện nay, chi phí quản lý CTR cho 01 tấn chất thải ở Hà Nội ước tính là 24 USD cho thu gom, 11 USD cho vận chuyển và 4 USD cho chôn lấp. Mức phí CTR trung bình cho mỗi hộ gia đình ở Hà Nội là 26.500 VNĐ/hộ/tháng hoặc 218.630 VNĐ/tấn (9.7 USD/tấn) bao gồm 172,600 VNĐ/tấn (7,6 USD/tấn) cho thu gom và 46,030 VNĐ/tấn (2 USD/tấn) cho vận chuyển (Ngân hàng Thế giới, 2019).
Chỉ ở các quốc gia có thu nhập cao, nguồn thu từ phí rác thải đủ để vận hành hệ thống QLCTR. Hầu hết các quốc gia có thu nhập thấp và một số ít quốc gia có thu nhập cao như Hàn Quốc và Nhật Bản, hoạt động quản lý CTR được trợ cấp từ nguồn ngân sách nhà nước. Hợp tác đối tác công-tư (PPP) có tiềm năng giảm gánh nặng đối với ngân sách, tuy nhiên, nếu PPP không được cấu trúc và quản lý đúng cách có thể dẫn đến sự thỏa hiệp về chất lượng dịch vụ (Silpa K. et al, 2018).
St