haisam_dh06km
Mầm xanh
- Tham gia
- 19/11/10
- Bài viết
- 7
- Cảm xúc
- 0
Bên cạnh việc xả nước thải không qua xử lý diễn ra nghiêm trọng và “đại trà” đã được biết đến, có chăng vẫn còn “phần chìm của tảng băng” tồn tại nhờ các phương thức “lách luật” chưa được nói tới?
Các thủ thuật “lách luật” đang hoặc sẽ có thể được sử dụng để “hợp thức hóa” hoặc làm giảm nhẹ tội của cơ sở vi phạm. Thử nêu một vài thủ thuật “lách luật” đó cũng như các biện pháp tương ứng cần có của các cơ quan chức năng để lấp kín những lỗ hổng này:
- Thủ thuật thứ nhất: cho thấm, bay hơi tự nhiên
Chiêu thức này thường được áp dụng ở các khu vực duyên hải miền Trung. Với các yếu tố thiên thời (nắng nóng, gió nhiều, dễ bay hơi), địa lợi (đất cát, dễ thấm), các cơ sở sản xuất sẽ làm hồ chứa nước thải bên trong nhà máy để nước vô tư thấm qua cát “đi vào lòng đất mẹ” xuống đất (và hệ quả là làm ô nhiễm nguồn nước ngầm); các chất độc hại dễ bay hơi sẽ đi cùng hơi nước để “gửi gió cho mây ngàn bay” khỏi tốn chi phí xử lý. Các cơ quan chức năng thật sự khó làm gì được.
Để đối phó với thủ thuật này, các cơ quan chức năng nên tính phí nước thải của cơ sở sản xuất trên lượng nước sử dụng (theo đồng hồ cấp nước, tất nhiên với mức phí rẻ hơn so với tính phí trên thể tích nước thải) chứ không nên tính thuế trên lượng nước thải được đưa tới khu xử lý tập trung, vì suy cho cùng hầu hết lượng nước cơ sở sử dụng cuối cùng bằng con đường này hay con đường khác đều được thải ra môi trường. Như vậy các cơ sở sản xuất sẽ không còn “nhu cầu” áp dụng thủ thuật này.
- Thủ thuật thứ hai: pha loãng nước thải
Đây là chiêu thức được những cơ sở nằm cạnh sông hay tại khu vực có nguồn nước ngầm phong phú sử dụng. Các cơ sở sản xuất chỉ việc bơm nước sông hoặc nước giếng khoan pha loãng nước thải. Ví dụ: với nồng độ chất thải A trong nước thải là 2g/l, trong khi tiêu chuẩn môi trường chỉ cho phép thải ra với nồng độ 1g/l. Vậy chỉ cần bơm 1 lít nước thải pha loãng 1 lít nước từ máy bơm rồi vô tư... thải ra môi trường. Với phương thức này thì các cơ quan quản lý dù khó tính nhất vẫn phải “gật gù” khen nước thải đạt chất lượng.
Kẽ hở để cơ sở sản xuất lách luật ở đây là cơ quan quản lý chưa xem nguồn nước, dù là nước mặt (như nước sông, hồ, ao, suối) hay nước ngầm (như nước giếng khoan) thực chất đều là tài nguyên quốc gia. Vậy muốn khai thác, sử dụng cho bất kỳ mục đích gì (sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh) đều phải có giấy phép và đóng thuế. Bên cạnh đó, khi tính phí môi trường đối với nước thải cần xem xét không chỉ vấn đề nồng độ chất thải mà phải tính cả tổng lượng chất thải ra nữa.
- Thủ thuật thứ ba: giảm thời gian lưu
Đầu tư một hệ thống xử lý nước thải hoàn chỉnh thật sự là việc cần thiết nhưng... tốn kém. Và chi phí để nó hoạt động đều đặn, hiệu quả hằng ngày thì cũng tiêu tốn không kém (đặc biệt là với các cơ sở sản xuất sử dụng lượng nước lớn như Vedan chẳng hạn). Mỗi hệ thống xử lý đòi hỏi phải lưu giữ nước thải trong hệ thống một thời gian nhất định để quá trình xử lý xảy ra, thời gian đó gọi là thời gian lưu (retention time: thời gian lưu giữ cần thiết để quá trình xử lý xảy ra triệt để). Với các phương pháp xử lý hóa học thời gian lưu có thể là nhiều giờ, với các phương pháp xử lý sinh học thời gian lưu có thể nhiều ngày.
Thời gian lưu càng lâu càng đòi hỏi bể chứa có thể tích lớn, diện tích mặt bằng càng rộng (nghĩa là càng tốn kém). Vậy là, để “tiết kiệm” các cơ sở sản xuất sẽ giảm thời gian lưu để giảm chi phí. Hệ quả kèm theo là nước thải không đạt chất lượng. Nếu bị phát hiện chất lượng nước thải không đạt, trong trường hợp này cơ sở chỉ mang tội là “xử lý chưa đạt” (khác xa với tội “thải nước thải chưa xử lý ra môi trường”).
Để giải quyết thực trạng này, các cơ quan chức năng cần buộc doanh nghiệp sắp xây dựng bắt buộc phải có hệ thống xử lý nước thải đạt yêu cầu hoặc phải đấu nối vào hệ thống xử lý chung, đồng thời thường xuyên kiểm tra chất lượng nước thải.
Bên cạnh đó, để tăng cường giải quyết triệt để vấn đề xả nước thải chưa xử lý ra môi trường, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở áp dụng các biện pháp xử lý, về phương diện quản lý nhà nước các cơ quan chức năng cần lưu ý thêm những vấn đề như:
- Lộ trình áp dụng các tiêu chuẩn: Các tiêu chuẩn cho nước thải hiện nay ở VN (từ TCVN 6980-2001 đến TCVN 6987-2001) phải theo đúng các chuẩn mực quốc tế. Thế nhưng, xét về thực trạng và quá trình lịch sử việc xử lý nước thải của các cơ sở sản xuất hiện nay ở VN thì việc áp dụng triệt để các tiêu chuẩn đó thật sự khó khả thi (như người chỉ mới tập tễnh biết đi xe đạp lại yêu cầu lái ngay xe đua phân khối lớn, thật sự là bó tay). Do đó, các cơ quan quản lý nhà nước nên chăng cần có một lộ trình từng bước (2-5 năm chẳng hạn) cho việc áp dụng từng phần các tiêu chuẩn nêu trên (kèm theo là việc thu phí với phần thải vượt mức tiêu chuẩn thích ứng).
Tránh việc các cơ sở sản xuất bị “sốc” trước các tiêu chuẩn đòi hỏi phải đầu tư tức thời quá khả năng chịu đựng (dẫn đến tâm lý có xây dựng hệ thống xử lý cũng không đáp ứng được các tiêu chuẩn về môi trường, thôi thì “liều”, đến đâu hay đó, hoặc tìm các phương thức tiêu cực khác ít tốn kém hơn).
- Với doanh nghiệp sắp xây dựng cần bắt buộc phải có hệ thống xử lý nước thải đạt yêu cầu hoặc đấu nối vào hệ thống xử lý chung, nếu không kiên quyết về vấn đề này thì việc giải quyết các hệ lụy tiếp theo là rất phức tạp.
- Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ như miễn, giảm tiền thuê đất, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để các cơ sở xây dựng hệ thống xử lý nước thải.Với các lưu ý vừa nêu hi vọng nếu được áp dụng đồng bộ thì vấn nạn “lách luật” để xả nước thải nói riêng, cũng như vấn nạn nước thải công nghiệp ở VN nói chung sẽ được cải thiện.
NGUYỄN VĂN TRUNG (M. E., M. Sc.)
:32::32:
Các thủ thuật “lách luật” đang hoặc sẽ có thể được sử dụng để “hợp thức hóa” hoặc làm giảm nhẹ tội của cơ sở vi phạm. Thử nêu một vài thủ thuật “lách luật” đó cũng như các biện pháp tương ứng cần có của các cơ quan chức năng để lấp kín những lỗ hổng này:
- Thủ thuật thứ nhất: cho thấm, bay hơi tự nhiên
Chiêu thức này thường được áp dụng ở các khu vực duyên hải miền Trung. Với các yếu tố thiên thời (nắng nóng, gió nhiều, dễ bay hơi), địa lợi (đất cát, dễ thấm), các cơ sở sản xuất sẽ làm hồ chứa nước thải bên trong nhà máy để nước vô tư thấm qua cát “đi vào lòng đất mẹ” xuống đất (và hệ quả là làm ô nhiễm nguồn nước ngầm); các chất độc hại dễ bay hơi sẽ đi cùng hơi nước để “gửi gió cho mây ngàn bay” khỏi tốn chi phí xử lý. Các cơ quan chức năng thật sự khó làm gì được.
Để đối phó với thủ thuật này, các cơ quan chức năng nên tính phí nước thải của cơ sở sản xuất trên lượng nước sử dụng (theo đồng hồ cấp nước, tất nhiên với mức phí rẻ hơn so với tính phí trên thể tích nước thải) chứ không nên tính thuế trên lượng nước thải được đưa tới khu xử lý tập trung, vì suy cho cùng hầu hết lượng nước cơ sở sử dụng cuối cùng bằng con đường này hay con đường khác đều được thải ra môi trường. Như vậy các cơ sở sản xuất sẽ không còn “nhu cầu” áp dụng thủ thuật này.
- Thủ thuật thứ hai: pha loãng nước thải
Đây là chiêu thức được những cơ sở nằm cạnh sông hay tại khu vực có nguồn nước ngầm phong phú sử dụng. Các cơ sở sản xuất chỉ việc bơm nước sông hoặc nước giếng khoan pha loãng nước thải. Ví dụ: với nồng độ chất thải A trong nước thải là 2g/l, trong khi tiêu chuẩn môi trường chỉ cho phép thải ra với nồng độ 1g/l. Vậy chỉ cần bơm 1 lít nước thải pha loãng 1 lít nước từ máy bơm rồi vô tư... thải ra môi trường. Với phương thức này thì các cơ quan quản lý dù khó tính nhất vẫn phải “gật gù” khen nước thải đạt chất lượng.
Kẽ hở để cơ sở sản xuất lách luật ở đây là cơ quan quản lý chưa xem nguồn nước, dù là nước mặt (như nước sông, hồ, ao, suối) hay nước ngầm (như nước giếng khoan) thực chất đều là tài nguyên quốc gia. Vậy muốn khai thác, sử dụng cho bất kỳ mục đích gì (sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh) đều phải có giấy phép và đóng thuế. Bên cạnh đó, khi tính phí môi trường đối với nước thải cần xem xét không chỉ vấn đề nồng độ chất thải mà phải tính cả tổng lượng chất thải ra nữa.
- Thủ thuật thứ ba: giảm thời gian lưu
Đầu tư một hệ thống xử lý nước thải hoàn chỉnh thật sự là việc cần thiết nhưng... tốn kém. Và chi phí để nó hoạt động đều đặn, hiệu quả hằng ngày thì cũng tiêu tốn không kém (đặc biệt là với các cơ sở sản xuất sử dụng lượng nước lớn như Vedan chẳng hạn). Mỗi hệ thống xử lý đòi hỏi phải lưu giữ nước thải trong hệ thống một thời gian nhất định để quá trình xử lý xảy ra, thời gian đó gọi là thời gian lưu (retention time: thời gian lưu giữ cần thiết để quá trình xử lý xảy ra triệt để). Với các phương pháp xử lý hóa học thời gian lưu có thể là nhiều giờ, với các phương pháp xử lý sinh học thời gian lưu có thể nhiều ngày.
Thời gian lưu càng lâu càng đòi hỏi bể chứa có thể tích lớn, diện tích mặt bằng càng rộng (nghĩa là càng tốn kém). Vậy là, để “tiết kiệm” các cơ sở sản xuất sẽ giảm thời gian lưu để giảm chi phí. Hệ quả kèm theo là nước thải không đạt chất lượng. Nếu bị phát hiện chất lượng nước thải không đạt, trong trường hợp này cơ sở chỉ mang tội là “xử lý chưa đạt” (khác xa với tội “thải nước thải chưa xử lý ra môi trường”).
Để giải quyết thực trạng này, các cơ quan chức năng cần buộc doanh nghiệp sắp xây dựng bắt buộc phải có hệ thống xử lý nước thải đạt yêu cầu hoặc phải đấu nối vào hệ thống xử lý chung, đồng thời thường xuyên kiểm tra chất lượng nước thải.
Bên cạnh đó, để tăng cường giải quyết triệt để vấn đề xả nước thải chưa xử lý ra môi trường, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở áp dụng các biện pháp xử lý, về phương diện quản lý nhà nước các cơ quan chức năng cần lưu ý thêm những vấn đề như:
- Lộ trình áp dụng các tiêu chuẩn: Các tiêu chuẩn cho nước thải hiện nay ở VN (từ TCVN 6980-2001 đến TCVN 6987-2001) phải theo đúng các chuẩn mực quốc tế. Thế nhưng, xét về thực trạng và quá trình lịch sử việc xử lý nước thải của các cơ sở sản xuất hiện nay ở VN thì việc áp dụng triệt để các tiêu chuẩn đó thật sự khó khả thi (như người chỉ mới tập tễnh biết đi xe đạp lại yêu cầu lái ngay xe đua phân khối lớn, thật sự là bó tay). Do đó, các cơ quan quản lý nhà nước nên chăng cần có một lộ trình từng bước (2-5 năm chẳng hạn) cho việc áp dụng từng phần các tiêu chuẩn nêu trên (kèm theo là việc thu phí với phần thải vượt mức tiêu chuẩn thích ứng).
Tránh việc các cơ sở sản xuất bị “sốc” trước các tiêu chuẩn đòi hỏi phải đầu tư tức thời quá khả năng chịu đựng (dẫn đến tâm lý có xây dựng hệ thống xử lý cũng không đáp ứng được các tiêu chuẩn về môi trường, thôi thì “liều”, đến đâu hay đó, hoặc tìm các phương thức tiêu cực khác ít tốn kém hơn).
- Với doanh nghiệp sắp xây dựng cần bắt buộc phải có hệ thống xử lý nước thải đạt yêu cầu hoặc đấu nối vào hệ thống xử lý chung, nếu không kiên quyết về vấn đề này thì việc giải quyết các hệ lụy tiếp theo là rất phức tạp.
- Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ như miễn, giảm tiền thuê đất, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để các cơ sở xây dựng hệ thống xử lý nước thải.Với các lưu ý vừa nêu hi vọng nếu được áp dụng đồng bộ thì vấn nạn “lách luật” để xả nước thải nói riêng, cũng như vấn nạn nước thải công nghiệp ở VN nói chung sẽ được cải thiện.
NGUYỄN VĂN TRUNG (M. E., M. Sc.)
:32::32: